1. Tuyên truyền về tiểu sử, sự nghiệp của Hoàng giáp Vũ Diệm
Vũ Diệm (có tài liệu viết là Võ Diệm), sinh năm Ất Dậu (1705), niên hiệu Chính Hòa năm thứ 26 - Nhà Hậu Lê, ông sinh ra tại làng Thổ Vượng, huyện Thiên Lộc xưa, nay là xã Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Cha là Vũ Tuyển, đỗ Hương giải, từng làm Tri phủ, sau thăng làm Tham nghị Hưng Hóa.
Vũ Diệm là người thông minh, năm 13 tuổi dự các kỳ thi khảo hạch đều đỗ đầu. Ra Kinh sư du học, có lần trong một ngày làm cả 12 bài luận đều đạt điểm cao nhất, năm ấy ông đã 24 tuổi.
Khoa Kỷ Dậu, năm Bảo Thái thứ 10 (1729) vào thi Hương đầu tiên ông đỗ Giải nguyên. Năm Vĩnh Khánh thứ 4 (1732), Ông dự thi, lại đỗ đầu. Được bổ chức Thị nội văn chức (giúp việc giấy tờ ở phủ Chúa), sau chuyển ra Tri phủ Trường Khánh. Năm Lê Ý Tôn, Vĩnh Hữu thứ 5, khoa Kỷ Mùi thi Hội (1739), ông dự thi đậu ba trường, được xếp vào hạng thứ 2. Vào thi Đình, bài đối sách mạch lạc rõ ràng, ông được ban Đình nguyên Hoàng giáp.
Khoa Kỷ Dậu, năm Bảo Thái thứ 10 (1729) vào thi Hương đầu tiên ông đỗ Giải nguyên. Năm Vĩnh Khánh thứ 4 (1732), Ông dự thi, lại đỗ đầu. Được bổ chức Thị nội văn chức (giúp việc giấy tờ ở phủ Chúa), sau chuyển ra Tri phủ Trường Khánh. Năm Lê Ý Tôn, Vĩnh Hữu thứ 5, khoa Kỷ Mùi thi Hội (1739), ông dự thi đậu ba trường, được xếp vào hạng thứ 2. Vào thi Đình, bài đối sách mạch lạc rõ ràng, ông được ban Đình nguyên Hoàng giáp.
Vào triều lần này, ông được bổ Hàn Lâm thị chế, sau chuyển Đông các hiệu thư. Một thời gian, được phụng sai sung bộ tham mưu, giúp quan Tổng binh chính quản đạo Hải An (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) dẹp cuộc nổi dậy làm loạn do Nguyễn Cừ cầm đầu. Lập công lớn, ông được ban chức Đông các đại học sĩ, rồi thăng Thiêm sai phủ liêu ứng vụ (Phủ Chúa Trịnh). Tiếp đó, ông cầm quân vào dẹp bọn phiến loạn tại huyện Quỳnh Lưu do Ngô Vũ Xương, Nông Văn Huy cầm đầu. Thắng trận trở về, được thăng chuyển làm Đốc đồng Kinh Bắc. Trong thời gian dẹp loạn tại Nghệ An, khi vùng Hưng Nguyên hứng chịu trận bão lụt lớn, ông đã ở lại, huy động lực lượng giúp Nhân dân khai kênh tháo úng, chống lụt bất kể ngày đêm. Nhớ công ơn, Nhân dân sở tại tôn kính, vừa thân mật gọi ông là Quan Hoàng (Hoàng giáp).
Làm việc ở Kinh Bắc chưa được bao lâu, ông đột ngột qua đời, khi 41 tuổi, triều đình cùng Nhân dân các nơi ông đã từng đến tri nhậm đều rất tiếc thương. Nhà vua truy phong ông Trụ quốc thượng trật; đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, Hồng Lĩnh bá và ngự ban đôi câu đối ngợi khen về sự thành đạt của ông.
Tam khoa thủ tuyển, khai tiền lộ
Nhị giáp cao đề, khải hậu tri.
Dịch:
Đỗ đầu luôn ba khoa, mở ra hướng mới;
Vượt qua đệ nhị giáp, dẫn dắt lớp sau[1].
Khi ông mất, do không có con trai, Triều đình đã xuống chỉ giao cho ông Võ Chân, là em ruột của ông, khi đó đang giữ chức Tri huyện Quỳnh Lưu chịu trách nhiệm đảm đương việc thờ phụng ông.
Bà vợ ông là con gái của Thượng thư Hồ Sỹ Dương quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Chồng mất khi còn trẻ nhưng bà không tái giá, thủ tiết thờ chồng, được triều đình ban phong Tiết phụ phu nhân. Ông được lập đền thờ tại quê hương và một số nơi ông từng trị nhậm.
Ghi nhận những công lao, đóng góp của Hoàng giáp Vũ Diệm, ngày 08/8/2005, UBND tỉnh Hà Tĩnh có Quyết định số 1592/QĐ-UBND-VX xếp hạng Nhà thờ Vũ Diệm là di tích Lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Tên Vũ Diệm đã được đặt cho trường Trung học cơ sở Vượng Lộc và Thiên Lộc, huyện Can Lộc cũ, nay là xã Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
2. Tuyên truyền về tiểu sử, sự nghiệp của Thám hoa Phan Kính
Phan Kính, tự Dĩ Trực, hiệu Tĩnh Trai, sinh ngày 11 tháng 11 năm Ất Mùi (tức ngày 06/12/1715) tại thôn Vĩnh Gia, xã Lai Thạch, huyện La Giang (La Sơn), nay thuộc xã Trường Lưu, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1735, Phan Kính thi đậu Hương cống. Khoảng năm 1739, Phan Kính kết hôn với bà Nguyễn Thị Dinh - chị gái La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp. Đến năm Quý Hợi (1743), ông dự kỳ thi Hội, rồi vào thi Đình, đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa), là học vị cao nhất của khoa thi năm Quý Hợi (1743) do triều đình không lấy Trạng nguyên, Bảng nhãn. Tết Nguyên đán năm Giáp Tý (1744), ông được triều đình cấp ngựa và tiền về quê vinh quy bái tổ. Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm thay mặt các văn thân huyện Thiên Lộc soạn bức trướng mừng, trong đó có đoạn:… Tài hoa rực rỡ, danh tiếng lẫy lừng, văn chương càng viết càng hay như thu gom châu ngọc, lý thú diệu kỳ, dùi mài đẽo gọt càng lắm công phu…”.
Sau khi thi đỗ Thám hoa, năm Giáp Tý (1744), ông được sắc phong giữ chức Hàn Lâm viện đãi chế, tham gia vào các công việc soạn thảo văn bản triều đình.
Năm Nhâm Thân (1752), thăng chức Đông các Đại học sĩ, sau đó lần lượt nhận các chức Đốc đồng Trấn thủ sự vụ xứ Thanh Hoa, Thự đốc thị Nghệ An, Đốc đồng Tuyên Quang kiêm thừa Chánh sứ, Kinh lược sứ, Tham mưu nhung vụ đạo Hưng Hóa.
Trong thời gian được giao trấn trị miền biên viễn phía Bắc (khoảng năm 1760), tài năng của Phan Kính đã khiến vua Càn Long nhà Thanh vô cùng mến phục. Giai thoại kể rằng, trong một lần đi sứ sang Trung Hoa, Phan Kính đã thể hiện sự ung dung, đỉnh đạc, bản lĩnh, đối đáp thông minh, sắc sảo và khéo léo trước triều đình nhà Thanh. Ông đã khiến vua Càn Long phải thốt lên lời khen ngợi đặc biệt, phong cho ông là "Lưỡng quốc Đình nguyên Thám hoa", và ban tặng một chiếc áo cẩm bào cùng hai bức trướng ghi dòng chữ "Thiên triều đặc tứ Bắc đẩu dĩ Nam nhất nhân nhi dĩ" (Thiên triều đặc biệt ban cho người đứng đầu phương Nam).
Do làm việc lao lực lại bị nhiễm lam sơn chướng khí độc hại nơi biên cương, Phan Kính đã qua đời tại nhiệm sở Hưng Hóa ngày 08 tháng 6 năm Tân Tỵ (tức ngày 07/7/1761 dương lịch), thọ 47 tuổi.
Sau khi mất, thi hài ông được rước về kinh đô Thăng Long. Chúa Trịnh Doanh mến phục tài năng và đức độ của ông đã cấp lễ vật, tử tuất rất trọng hậu và tự tay đề bức trướng phúng viếng: “LƯỠNG ĐỒ VĂN HỮU VŨ - VẠN LÝ HIỂM VI DI” (Hai đường kiêm văn, võ - Vạn dặm hiểm lại bình). Triều đình ban sắc truy phong chức Hữu thị lang Bộ Hình, tước Quỳ Dương bá, thụy Trung hiền, và giao cho Bộ lễ cùng binh lính hộ tống, đưa linh cữu ông về mai táng tại quê nhà. Đến năm Quý Mão (1783), vua Lê Hiển Tông phong sắc tôn công thần Phan Kính làm Thành hoàng, gia phong là “Anh nghị đại vương”. Sắc phong mỹ tự đã ca ngợi: “… Tướng công văn tài đứng hàng đầu nho sĩ, võ lược xếp vào loại tướng giỏi, được trong triều ngoài quận kính trọng, là người có danh vọng cao như sao Bắc Đẩu trong số các bậc sĩ phu ở trời Nam. Chốn miếu đường cũng như nơi chiến địa đều lẫy lừng tiếng thơm, một miền biên thùy phía Bắc đều khen tài lạ. Từng được ban khen vinh hiển. Sống vẻ vang, chết cũng vẻ vang nên cho được hưởng lộc đời đời…”.
Sinh thời, Phan Kính có sáng tác một số sách như Kinh truyện tự sự, Sách văn lược cú, tập thơ Dĩ trực thi tập nhưng nay đã thất lạc. Hiện chỉ còn lại hai bài văn thi Hội và thi Đình, tấm văn bia từ đường họ Phan và một số bài thơ chữ Hán lưu giữ tại Viện Hán Nôm.
Ghi nhận những công lao, đóng góp của Thám hoa Phan Kính, ngày 23/6/1992, Bộ Văn hóa - Thông tin và Thể thao ban hành Quyết định số 776-QĐ/BT xếp hạng di tích Đền thờ Phan Kính là di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia. Tên Phan Kính đã được đặt cho một số đường phố tại Thành phố Hà Nội, thành phố Vinh (cũ), thành phố Hà Tĩnh (cũ), thị xã Hồng Lĩnh (cũ), tên trường tiểu học của xã Trường Lưu.
Tại quê nhà, chính quyền xã Trường Lưu và con cháu dòng họ Phan Vĩnh Gia, cùng bà con Phan tộc Hà Tĩnh đã có nhiều hoạt động ý nghĩa để gìn giữ, phát huy giá trị của di tích Lịch sử văn hóa cấp quốc gia này.
